Các vị đại khoa
[img]
[/img]
Suốt mấy thế kỉ xây dựng nền văn hiến, tinh thần hiếu học của nhân dân Yên Thành được nuôi dưỡng, phát huy. Dẫu nghèo đói, nhưng ai cũng muốn cho con học chữ để làm người. Nhiều gia đình chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai nuôi con ăn học. Nhân dân đã nuôi dưỡng, chăm sóc nhiều học trò ưu tú. Theo "Nghệ An đăng khoa lục" từ thời Trần đến thời Nguyễn, Yên Thành có 21 vị đại khoa, trong có 4 trạng nguyên, 3 thám hoa, 3 hoàng giáp, 6 tiến sĩ, 5 phó bảng.
1) Bạch Liêu
Ông Bạch Liêu còn gọi là Bạch Bồng Liêu người thôn Quảng Đông, xã Nguyên Xá, đậu trạng nguyên năm Thiệu Long thứ 9(1226), vị trạng nguyên đầu tiên của Nghệ An. Ông thông minh, cường kí, đọc sách xem 10 hàng nhớ ngay. Ông không ra làm quan mà chỉ làm môn khách cho Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, nhân dân thường gọi ông là Bạch Liêu cư sĩ. Khi ông mất, được nhân dân thờ làm phúc thần. (Theo Quỳ Trạch đăng khoa lục và tộc phả họ Bạch ở Mã Thành thì ông người làng Trúc Hạ, Thanh Đà, sau dời về làng Quảng Đông, xã Nguyên Xá, khi Quảng Đông bị tiêu tán, con cháu ông lại trở về quê cũ Thanh Đà. Nhà thờ họ Bạch còn bài vị thờ ông. Nhà thánh của văn sĩ hội xã Thanh Đà tổng Quy Trạch thờ tự ông)
2) Hồ Tông Thốc
Hiệu là Động Đình , người thôn Tam Thọ, tổng Quỳ Trạch (Thọ Thành), đậu trạng nguyên năm 19 tuổi thời nhà Trần. Ông nổi tiếng hay chữ nhất kinh sư. Trong một bữa tiệc, ông làm luôn 100 bài thơ. Ông là một nhà văn hoá lớn có tài nhiều mặt như thơ, văn, lịch sử. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm : "Thảo nhần hiệu tần thí tập", "Đại Nam thế chỉ" và "Việt sử thông giám cương mạc"
3) Hồ Tông Đốn
Ông Hồ Tông Đốn hiệu là Ngộ Hiên, con ông Hồ Tông Thốc, đậu trạng nguyên đời Trần
4) Hồ Tông Thành
Ông Hồ Tông Thành hiệu là Bỉnh Quốc, con ông Hồ Tông Đốn, cháu ông Hồ Tông Thốc, đậu trạng nguyên đời Trần
5) Hồ Doãn Văn
Ông Hồ Doãn Văn là cháu 4 đời của Hồ Tông Thành, đậu tiến sĩ triều nhà Lê
6) Nguyễn Vấn Bính
Ông là người xã Thanh Khê, 31 tuổi đậu đệ tam giác tiến sĩ xuất thân năm Quang Thuận thứ mười, đời vua Lê Thánh Tông (1469)
7) Lê Văn Học
Ông là người xã Thanh Khê, 33 tuổi đậu đệ nhị Giáp hoàng giáp xuất thân khoa Nhâm Tuất, năm Cảnh Thống thứ 5, đời vua Lê Hiến Tông (1502)
Phan Duy Thực (Phan Văn Công)
Ông là người xã Tràng Thành, đậu đệ nhất giáp Thám hoa năm Bính Ngọ (1546)
9) Trần Đăng Dũng
Người làng Diệu ốc, đậu tiến sĩ thứ 19 khoa Bính Ngọ (1546)
10) Phan Tất Thông
Người xã Tràng Thành, đậu Thám hoa năm Thuận Bình thứ 6 đời vua Lê Tràng Tông. Ông làm đến chức Hàn lâm đông các học sĩ và Binh bộ thị lang
11) Trần Trọng Xuân
Ông có tên là Trọng Dương , người làng Thọ Canh, tổng Quỳ Trạch, đậu phó bảng năm 26 tuổi đời vua Lê Hy Tông
12) Chuyện về ông Nguyễn Hữu Đạo
Người xã Quỳ Lăng, 33 tuổi đậu hội nguyên đệ nhị giáp haòng giáp xuất thân, khoa Tân Vỵ năm Chính Hoà 12, vua Lê Hy Tông (1691)
13) Trần Đình Phong
Người làng Yên Mã, đậu đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, khoa thi Kỷ Mão (1879). Ông làm Tế tửu Quốc tử giám (Giám đốc trường Đại học Việt Nam thời nhà Nguyễn) là tác giả của tập sách: "Quỳ Trạch đăng khoa lục"
14) Nguyễn Hưng Công
Người xã Tiên Thành, năm 24 tuổi đậu tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Canh Thân năm Vĩnh tự thứ 5, đời vua Lê Hy Công (1680)
15) Phan Dưỡng Hạo
Ông Phan Dưỡng Hạo tức ông Phan Thúc TRực, người xã Vân Tụ, đậu nhất thám hoa cập đê năm Đinh Vị (1847) . Ông đã viết những tập sách :
- Diễn Châu phủ chí
- Cẩm đình thi tập
- Bắc hành nhật kí
16) Luyện Tông Hàn
Người làng Xuân Lại, xã Gia Hội, đậu phó bảng khoa Quý Hợi (1743)
17) Phan Võ
Người Yên Nhân, đậu đầu cử nhân trường thi Nghệ An (giải nguyên) khoa Kỷ Dậu (1909) và đậu phó bảng khoa Canh Tuất (1910). Ông là dịch giả quyển "Thượng kinh kí sự" của Hải Thượng Lãn Ông...
18) Lê Doãn Nhã
Người làng Tràng Sơn, đậu phó bảng khoa Tân vỵ (1871). Ông đã cùng Nguyễn Xuân Ôn khởi nghĩa chống Pháp
19) Lê Kính
Lê Kính (1587 - 1654): Người Tràng Sơn, xã Quan Trung. Năm 42 tuổi đậu Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1628).
20) Lê Hiếu
Lê Hiếu là con trai của Lê Kính. Ông sinh năm 1617, chưa rõ năm mất. Năm 27 tuổi đậu Hoàng Giáp, khoa Quý Mùi (1693). Ông đã làm tới chức Lễ Bộ Thượng Thư, đi sứ Minh triều. Khi mất ông được nhà vua phong tặng Tả thị lang.
21) Phan Cảnh Nho
Là người xã Tràng Thành, làng Nam Thôn, đậu Bá Tràng (Phó Bảng) khoa ất Tỵ (1785), đã làm tới chức Hồ Trung Hải Đường.
Qua thống kê chưa đầy đủ trên đây, chúng ta thấy truyền thống hiếu học của nhân dân Yên Thành được duy trì và phát triển từ khoa thi đầu tiên đến khoa thi cuối cùng. Có gia đình 3;4 cha, con, ông, cháu đều đậu đạt cao, như dòng họ Hồ ở Tam Thọ : 3 trạng nguyên, 1 tiến sĩ, 1cử nhân,tú tài.
Đây là một phần trong bài tìm hiểu về địa phương của em Nguyễn Hồng Vương-Lớp 6A-Trường THCS Bạch Liêu-Yên Thành-Nghệ An, mọi người có đọc để tham khảo nếu ai có thông tin đầy đủ hơn về các vị đại khoa này xin gửi về cho chúng tôi.
[img]
[/img]